Nơi đón nhận mọi học sinh cá biệt
17/01/2012
Khái niệm về Nghệ thuật Trị Liệu
24/01/2012
Nơi đón nhận mọi học sinh cá biệt
17/01/2012
Khái niệm về Nghệ thuật Trị Liệu
24/01/2012

Trò chơi trên cát là một kỹ thuật trong các hình thức trò chơi trị liệu (play therapy) – một hình thức tâm lý trị liệu cho trẻ em, trẻ vị thành niên, cá nhân người lớn hoặc cả gia đình.

Những hình mẫu thu nhỏ (miniatures), tượng trưng cho con người, thú vật, hoặc sự vật được sử dụng để tạo nên những hoạt cảnh trên bề mặt cát. Được gọi là sandplay (trò chơi trên cát) hoặc sandtray therapy (Trị liệu trên khay cát), hoặc theo Magaret Lowensfeld (tác giả của phương pháp) là World Technique (Kỹ thuật Thị hiện Thế giới). Kỹ thuật này được sử dụng trong một bối cảnh có tính nghi thức, có sự chuyển tiếp hoặc như một biện pháp can thiệp cho các sang chấn, đau khổ về tinh thần.

  

Sự hình thành liệu pháp

Trị liệu trên khay cát được phát triển bởi BS. Magaret Lowensfeld trong thập niên 1920 từ cảm hứng khi đọc Floorgames (Trò chơi trên sàn nhà) của H.G. Wells (1906), và được áp dụng tại Trung tâm Trò chơi Trị liệu tại Luân Đôn, Anh quốc. Wells và các con trai của mình đã cùng chơi những trò chơi trên sàn nhà; họ lấy những hình mẫu thu nhỏ để bày ra những cảnh chơi đầy kịch tính trên sàn nhà. Những trò chơi được gia đình Wells xem như một phương cách để khám phá một khung cảnh sau những xung đột.

 Lowensfeld, cũng giống như Freud, Klein và Winnicott, hiểu rằng trẻ em cần có những công cụ phi ngôn ngữ để giao tiếp và có thể tạo nên ý nghĩa cho những trải nghiệm của mình. Bà cũng nhận ra hoạt động chơi có khả năng giúp chuyển biến và tổng hợp lại những thế giới quan còn hạn chế của trẻ. Bà đã không chỉ đưa thêm vào khay những nội dung chơi mà còn cho cả cát và nước vào để đứa trẻ giải bày những trạng thái sinh học và siêu hình phức tạp. Bộ công cụ này nhằm giúp trẻ cảm nhận được các trải nghiệm của mình chứ không giúp gia tăng khả năng diễn giải của nhà trị liệu về thực tại của đứa trẻ.

 Những thân chủ trẻ con của Lowensfeld đã sử dụng các vật liệu chơi này một cách nhiệt tình vì tính chất hấp dẫn, đa năng và đa chiều kích của nó. Nhất là nó không cần đến bất cứ kỹ năng đặc biệt nào. Có một đứa trẻ gọi đó là “Cả thế giới để vui chơi” – điều này khiến bà đôi khi gọi đó là “Trò chơi Thế giới” (Worldplay; hay tiếng Đức là Weltspiel), đó cũng là tiền thân cho các tên gọi World Apparatus hoặc Lowensfeld World Technique về sau.

 Nhiều thập niên trôi qua kể từ ngày Lowensfeld đưa kỹ thuật này vào Trung tâm trị liệu của bà, các giáo viên, những nhà tư vấn và nhà nghiên cứu thuộc nhiều trường phái đã vận dụng bộ công cụ này cho đối tượng của họ. Dần dần, trò chơi trên cát được sử dụng để giúp con người kết nối và trở nên quan tâm hơn đến thực tại cá nhân và liên cá nhân trong đời sống của mình. Những nhà thực hành đã sử dụng nó để gia tăng khả năng của ý thức, khả năng tự bình phục, giảng dạy, học tập, sáng tạo, giao tiếp và những mối quan hệ lành mạnh giữa con người với nhau.

 Do khay cát là công cụ hữu hiệu và thú vị, nhiều tác giả đã đưa ra những tên gọi riêng cho phương pháp của mình nhằm mô tả những cuộc chơi trên khay cát; mỗi cách thể hiện cách thức cũng như quan điểm riêng của từng tác giả về những tiến trình xảy ra trong khay cát.

 Liệu pháp khay cát nay đã vươn xa ra khỏi phạm vi tham vấn và trị liệu tâm lý; được áp dụng trong giáo dục, trong những hành trình tìm kiếm về mặt tinh thần, trong công việc, cũng như bất cứ hoàn cảnh nào mà những người có nguồn gốc xuất thân và văn hóa khác nhau muốn hiểu biết lẫn nhau trong thâm sâu con người của mình.

 Cách gọi tên phương pháp cũng gợi lên những câu chuyện hoặc thực tại chuyên biệt. Tại Úc, một bé trai 12 tuổi đã gọi là “bức tranh cát” (sand picture) hoặc “tranh vẽ các ý nghĩ” (thinking picture). Đứa trẻ nói: “Cháu đã nói rất nhiều về những việc đã xảy ra, nhưng ở đây cháu im lặng, cháu bận suy nghĩ. Suy nghĩ là một kẻ khó tính. Không ai có thể nghe được. Nhưng bức tranh trên cát là một thứ suy nghĩ, mà người ta có thể nghe thấy nó lên tiếng”.


 


Theo trường phái Nhân văn

 Liệu pháp khay cát là một hình thức tâm lý trị liệu năng động và diễn đạt, giúp thân chủ có thể giải bày nội tâm của họ thông qua các biểu tượng và hình ảnh ẩn dụ. Trường phái nhân văn nhấn mạnh đến việc hình thành mối quan hệ trị liệu sâu sắc và khả chấp, cùng với cách tiếp cận xử lý nội dung chủ yếu dựa trên những trải nghiệm ngay tại đây và ngay lúc này (here-and-now).

 Quan điểm nhân văn tin rằng khi con người phát triển ở lứa tuổi trẻ em và vị thành niên, họ có thể bị mất đi mối liên lạc với chính con người mà mình đang là. Họ có thể học cách chấp nhận một số cảm xúc và không chấp nhận những cảm xúc khác. Trong tiến trình chối bỏ những gì thuộc về con người thật, họ có thể mất liên lạc với bản ngã thực sự của chính mình. Liệu pháp khay cát mang đến những trải nghiệm về sự tái kết nối của con người với bản ngã chân thực của mình và giúp họ tái khám phá các ước mơ, hy vọng và tầm nhìn.

 Giống như Trò chơi trị liệu ở trẻ nhỏ, liệu pháp khay cát mang lại một trải nghiệm có tính chủ động, không lời, gián tiếp có tính biểu tượng. Giai đoạn tạo cảnh (scene creation phase), trong đó thân chủ sắp đặt các hình mẫu thu nhỏ trên khay cát, là rất quan trọng và cũng là giai đoạn trung tâm đạt đến các trải nghiệm từ khay cát. Còn giai đoạn xử lý (processing phase) sẽ mang thêm những trải nghiệm vốn đã hình thành trong giai đoạn tạo cảnh và cho phép suy xét lại trải nghiệm ấy. Thông qua giai đoạn xử lý, thân chủ có thể nhìn lại bối cảnh trong khay và trải nghiệm về tác động của nó.

 Tất cả các thành phần như khay cát, những hình mẫu, không gian an toàn trong khay cát, những lời nói trong khi chơi trên cát và cả công việc trong giai đoạn xử lý đều có tầm quan trọng trong việc tạo nên hiệu quả trị liệu.

 

Mục đích áp dụng:

 Khay cát là một loại công cụ mang tính giải bày, diễn đạt bao gồm:

  1. 1.Một môi trường được cấu trúc tốt qua đó những hình ảnh ẩn dụ của thân chủ sẽ được tạo lập và được khám phá.
  1. Sự trình bày bằng cách hiển thị các vấn đề của thân chủ để quá trình làm việc có thể tập trung vào những chủ đề cốt lõi trong suốt phiên trị liệu. Thân chủ có thể nhìn đi nhìn lại những biểu tượng trong quang cảnh mà mình đã tạo dựng, ngay cả khi họ đã khám phá chúng và từ đó thực hiện những sự hướng dẫn từ bên ngoài về vấn đề của họ.
  2. Một trải nghiệm sâu sắc đối với thân chủ. Bình thường họ hay tránh né sự trải nghiệm đầy đủ về những cảm xúc của mình. Khay cát tạo điều kiện cho họ khám phá bản ngã.
  3. Một phương tiện gián tiếp giúp thúc đẩy các hoạt động trị liệu cho những thân chủ bị bế tắc. Khi thân chủ xem xét các hình ảnh ẩn dụ của họ tạo nên, họ có thể vượt qua các phản ứng phòng vệ và hóa giải các phản kháng.

 Liệu pháp khay cát được sử dụng cho trẻ em từ 8 tuổi trở lên, vị thành niên và cả người lớn. Giống như liệu pháp chơi, thân chủ được trị liệu với khay cát cũng thể hiện bản thân theo cách ẩn dụ. Mặc dù trong giai đoạn xử lý, nhà trị liệu nói nhiều hơn trong liệu pháp chơi dành cho trẻ nhỏ, việc sử dụng và xử lý hình ảnh ẩn dụ cũng tương tự như trong liệu pháp chơi.

 Nhà trị liệu trường phái nhân văn xem thân chủ là những người có khả năng tự hiện thực hóa bản thân và có khuynh hướng phát huy tiềm năng. Họ có thể tự nhận biết bản thân và chịu trách nhiệm về những lựa chọn của mình. Con người là sinh vật có tính xã hội và có nhu cầu mạnh mẽ muốn kết nối với người khác. Theo quan điểm nhân văn, mối quan hệ là nguồn lực nền tảng tạo nên những thay đổi có tính xây dựng ở thân chủ (Cain, 2002). Mục đích cơ bản của mối quan hệ là tạo nên một bầu khí thuận lợi cho sự tăng trưởng. Rogers đã viết: “Hầu hết trẻ em, nếu được sống trong một môi trường đáp ứng nhu cầu về cảm xúc, trí tuệ và xã hội, đều có khuynh hướng đạt đến sự lành mạnh để đáp ứng và thích nghi với đời sống” (Kirschenbaum, 1979).

 Khi nhà trị liệu gặp thân chủ, dù là trẻ em hay người lớn, họ cần nhiều hơn một “môi trường bình thường phù hợp” như thế, vì họ không có được lòng tin của trẻ nhỏ. Vì vậy, việc thiết lập một bầu khí tối ưu cho tăng trưởng là điều rất quan trọng. Mối quan hệ trị liệu là trung tâm và khả năng tự nhận biết bản thân cùng với kỹ năng của nhà trị liệu có thể tạo nên bầu khí này và làm chất xúc tác cho sự tăng trưởng nơi thân chủ.

 Trong liệu pháp khay cát, nhà trị liệu tạo lập một không gian an toàn có tính chấp nhận để thân chủ có thể đối diện với các chủ đề cốt lõi của họ. Giống như trong liệu pháp chơi, bản chất mang tính ẩn dụ của khay cát giúp tạo nên khoảng cách an toàn để thân chủ có thể giải bày những cảm xúc đau khổ. Khay cát cho phép họ bộc lộ bản thân dưới hình thức những biểu tượng không lời, đồng thời tạo nên một sự phóng chiếu hiển thị những thực tại chủ quan trong nội tâm cũng như trong các mối quan hệ của thân chủ.

  Chỉ sử dụng khay cát khi thân chủ đã có được lòng tin khá sâu sắc với nhà trị liệu. Không thực hiện khi thân chủ còn lưỡng lự. Homeyer và Sweeney (1998) cho rằng khay cát nên được sử dụng một cách có mục đích và có dự định. Nhà trị liệu nên trình bày rõ những mục đích và thời lượng sử dụng khay cát trên từng thân chủ. Hai tác giả này đề nghị sử dụng khay cát như cách thức để thay đổi bước đi trong làm việc với thân chủ, như một cách thức để thêm sức mạnh cho tiến trình trị liệu hoặc đưa việc trị liệu đến các tầng mức can thiệp sâu xa hơn. Bởi vì khay cát có hiệu quả khi làm việc với những thân chủ bị bế tắc.

 

Giai đoạn tạo cảnh

 Homeyer và Sweeney (1998) thường nói một câu mở đầu như “Bạn hãy tạo một quang cảnh về đời sống của bạn trong hiện tại. Bạn cũn có thể sử dụng những hình ảnh trong quá khứ cũng như tương lai nhưng hãy trung thực với chính bạn về cuộc sống của bạn vào lúc này”.

 Trong giai đoạn tạo cảnh, nhà trị liệu cần phải đặt mình trong hiện tại càng nhiều càng tốt nhưng họ không nói gì đặc hiệu cả. Điều quan trọng đối với thân chủ là phải có sự trải nghiệm bên trong qua việc kết nối với các hình mẫu thu nhỏ và lựa chọn cái nào trong số đó để tạo cảnh. Nhà trị liệu không làm gián đoạn tiến trình bên trong này nhưng cần phải cho thân chủ biết rằng nhà trị liệu đang ở cùng thân chủ trong lúc họ trải nghiệm những phút giây thực hiện việc tạo cảnh.

Một số nhà trị liệu tin rằng tiến trình bình phục trong liệu pháp khay cát chỉ xảy ra trong giai đoạn tạo cảnh. Vì thế, họ không đi qua giai đoạn xử lý. Một số khác lại sử dụng những cảnh quan trên khay cát làm chủ đề khởi đầu cho việc tương tác bằng lời. Việc diễn giải bằng lời nói có thể giúp mở rộng những diễn biến trong nội tâm thân chủ mà những việc này đã bắt đầu trong giai đoạn tạo cảnh.

 Giai đoạn tạo cảnh sẽ giúp hình thành sắc thái cho quá trình thân chủ tự thăm dò và khám phá bản thân khi họ nhìn vào những hình mẫu và tìm thấy những mối liên hệ với chúng. Một số người cảm thấy lạc lối khi tìm cách sắp xếp các hình mẫu theo ý mình muốn. Nếu giai đoạn tạo cảnh được trải nghiệm một cách có ý nghĩa đối với họ, nếu thân chủ nhìn vào và suy nghĩ về những khía cạnh trong đời sống mà họ thường không chú ý đến, thì khi đó giai đoạn xử lý đã bắt đầu bên trong nội tâm. Việc chuyển sang giai đoạn xử lý bằng lời sẽ trở nên tự nhiên hơn rất nhiều khi thân chủ cho phép bản thân họ trải nghiệm giai đoạn tạo cảnh.

 

Giai đoạn xử lý

 Nhà trị liệu sẽ bắt đầu giai đoạn xử lý bằng cách nói với thân chủ: “Hãy nói về quang cảnh mà bạn đã tạo nên”. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể bắt đầu khi thân chủ cảm nhận được một điều gì đó ngay trong giai đoạn tạo cảnh. Nhà trị liệu có thể nói: “Bạn trông có vẻ rất buồn. Bạn đang chú ý điều gì vào lúc này?” Khái niệm về việc hiện diện cùng thân chủ trong từng khoảnh khắc là khái niệm trung tâm trong cách tiếp cận nhân văn ở giai đoạn xử lý. Cách tiếp cận nhân văn tập trung vào việc khám phá chứ không diễn giải. Tiến trình khám phá là một trải nghiệm sâu sắc. Hầu hết những gì nhà trị liệu thực hiện trong giai đoạn xử lý là tạo thuận lợi cho tiến trình khám phá và hiểu biết bản thân của thân chủ. Theo Rogers, những đáp ứng trị liệu có hiệu lực mạnh mẽ nhất là những đáp ứng giúp thân chủ vươn xa hơn mức độ hiểu biết về bản thân mà họ có trước đó.

 

 Những cảm xúc sâu lắng

 Nhiều người tự hỏi việc đi sâu khám phá bản thân có giá trị gì? Tại sao việc đi sâu vào các trải nghiệm lại có tính trị liệu? Việc trải nghiệm đầy đủ một cảm xúc có giá trị gì?

 Trong thực tế, việc cho phép bản thân trải nghiệm một cách đầy đủ những cảm xúc của chính mình sẽ mang lại cho người đó nhiều ích lợi. Trước tiên, sẽ là một phần thưởng vô giá khi một người cảm thấy “ổn định với vấn đề của chính mình”; “Liệu có cần xây bức tường ngăn cách với những trải nghiệm của ta hay ta có thể trông cậy vào chúng?”; “Làm thế nào để ta có thể hài lòng với những trải nghiệm của chính ta?”…

 Điều lợi thứ hai liên quan đến một quy luật tự nhiên: Để có thể khơi thông được một trải nghiệm cảm xúc, ta cần phải trải nghiệm nó một cách đầy đủ. Rogers (1989) lưu ý rằng một khi những cảm xúc phiền nhiễu được cảm nhận đầy đủ nhất, thì người ta có thể đi tới. Đây là phần rất quan trọng trong tiến trình thay đổi.

 Hãy tưởng tượng một phụ nữ đang tranh đấu với cuộc hôn nhân của cô ấy. Nhà trị liệu yêu cầu cô hãy tạo dựng một quang cảnh trên khay cát. Cô sẽ đặt một hình mẫu tượng trưng cho chồng ở một đầu khay cát; một hình mẫu tượng trưng cho cô ở đầu kia. Khi xử lý, cô nói “Tôi không còn yêu chồng tôi, nhưng tôi sợ rời xa anh ấy”. Những nhà trị liệu về hôn nhân và gia đình vẫn thường nghe những câu nói đại loại như thế; đó là sự phân cực đối lập (polarity) trong trải nghiệm của thân chủ.

 Nhà trị liệu khi ấy có thể nghĩ đến các chọn lựa trong việc đáp ứng với thân chủ trong khi vẫn phải chú tâm đến sự phân cực trong phát biểu của thân chủ. Nhà trị liệu có thể hỏi “Ngay lúc này đây, bạn cần biết rõ hơn trong câu nói có ý bạn không yêu chồng nữa hay là câu nói có ý bạn sợ rời xa anh ấy?” Nếu thân chủ trả lời cô ấy nhận biết rõ hơn về điều mình sợ rời xa chồng, nhà trị liệu sẽ hỏi “Bạn có cảm nhận nỗi sợ ấy ngay lúc này?” Nếu cô đáp là có, nhà trị liệu sẽ giúp thân chủ đi sâu hơn bằng cách “Vậy nỗi sợ đó như thế nào? Bạn hãy mô tả nó xem”.

 Nhà trị liệu đôi khi đánh giá không đầy đủ về nỗi sợ và sự phản kháng của thân chủ. Ở thân chủ thường có mong muốn thay đổi và nỗi sợ sự thay đổi. Vì con người đều có tình trạng phân cực đối lập như vậy. Khung cảnh trong khay cát thường phác họa trạng thái phân cực đối lập này hoặc hai khuynh hướng, thành phần, mong muốn tương phản. Hầu như ít có khay cát nào không chứa những điều tương phản. Những hình mẫu thường được sắp xếp thành từng cụm ở trong các góc hoặc trên một khu vực nào đó của khay cát. Bất cứ khi nào thân chủ sử dụng đến những vách ngăn hoặc rào chắn thì thường có nghĩa là sự phân cực đã xuất hiện.

 Trong liệu pháp khay cát, làm việc trên những điều phân cực theo cách như thế giúp thân chủ và nhà trị liệu “bảo tồn rất nhiều năng lượng”. Nếu thân chủ chưa sẵn sàng trải nghiệm đi sâu vào một cảm xúc đau thương, nhà trị liệu cần phải thừa nhận điều này và làm việc với thân chủ trên nỗi sợ thay vì là trên nỗi đau. Khi đó, thân chủ sẽ không kháng cự lại việc trị liệu và nhà trị liệu không cảm thấy mình đang lội ngược dòng. Khi một thân chủ chưa sẵn sàng, điều cần thiết là phải làm việc với thân chủ tại ngay nơi người đó đang đứng hơn là thúc đẩy người đó đi tới nơi họ cần đến.

BS. Nguyễn Minh Tiến ( tổng hợp)

Nguồn : www.tamlytrilieu.com

Lê Khanh
Lê Khanh
Chuyên gia tâm lý